Vậy đó, nếu anh bảo: “Bằng chứng hoàng tử quả có thật ở trong đời, ấy là chú rất quyến rũ dễ yêu, chú cười, chú muốn một con cừu. Một phen người ta muốn một con cừu, thì đó là một phen có đủ bằng chứng là người ta hiện hữu", thì những người lớn sẽ nhún vai và coi anh là con nít! Nhưng nếu anh bảo: “Tinh cầu từ đó hoàng tử tới đây là tiểu tinh cầu B 612" thì khi đó họ sẽ tâm đầu ý hiệp với anh ngay, siết tay du khoái hả hê ngay, gọi rằng tâm phúc tương cờ ngay, và để yên cho anh túc mục an lành với bao câu hỏi họ lăng xăng ngay. Họ là như vậy đó. Cũng chẳng nên hờn giận họ làm chi. Con trẻ phải nên rất mực độ lượng với những người lớn.
そんなわけですから、<王子様は、ほんとに素敵なヒトだった。ニコニコしていた。羊を欲しがっていた。それが王子様がこの世にいた証拠だ>と言ってみたり、<ある人がヒツジを欲しがっている、それが、その人のこの世にいる証拠だ>などといったら、おとなたちは、あきれた顔をして、<ふん、君は子供だな>というでしょう。だけれど、王子様の故郷との星は、 B-612番の星だと言えば、大人の人は、<なるほど>と言った顔をして、それきり、何もきかなくなるのです。大人の人というものは、そんなものです。悪く思ってはいけません。子供は、おとなのひとを、うんと大目に見てやらなくてはいけないのです。
Nhưng cố nhiên, chúng ta là kẻ am hiểu sự đời, chúng ta cứ mà tha hồ cợt cười những con số! Tôi còn muốn khởi đầu câu chuyện này theo điệu mở đầu chuyện thiên thần tiên nữ nữa là khác. Tôi còn ắt muốn nói:
“Thuở xưa kia từng đã một lần hoàng tử bé con, bé nhỏ, đã từng phen lưu trú tại một tinh cầu chơi với bé bỏng, bé tí, có lớn hơn tí chút hoàng tử mà thôi, và hoàng tử đã từng có thiết tha mong chờ một người bạn thiết…" Đối với những ai am hiểu cõi đời tồn sinh mát mẻ, thì đó thật quả ắt có vẻ xác thực chân chính hơn nhiều.
だけれど、僕たちには、ものそのもの、ことそのことが、大切ですから、もちろん、番号なんか、どうでもいいのです。僕は、この話を、おとぎ話みたいに、はじめたかったのです。そして、こんな風に話したかったのです。
「昔、昔、1人の王子様がおりました。その王子様は、自分より、ほんのちょっと大きい星を家にしていました。そしてお友達を1人、欲しがっていらっさいました・・・」
こうすると、ものそのもの、ことそのことを大切にする人には、話がもっともっと本当らしくなったでしょうに。
Leave a Reply